Ngày 22-11 vừa qua, Ủy ban kiểm tra Trung ương đã ban hành Hướng dẫn số 05 hướng dẫn thực hiện một số điều trong Quy định 69 của Bộ Chính trị về kỷ luật tổ chức đảng, đảng viên vi phạm.

Theo đó, khi đảng viên có hành vi vi phạm mà Quy định 69 quy định kỷ luật bằng hình thức cảnh cáo hoặc cách chức (nếu có chức vụ) thì sẽ xem xét kỷ luật cách chức đối với vi phạm:

- Đã bị kỷ luật mà tái phạm.

- Vi phạm trong phạm vi, lĩnh vực chuyên môn được giao; biết sai mà vẫn thực hiện hành vi vi phạm hoặc để xảy ra vi phạm tại tổ chức, cơ quan, đơn vị mình lãnh đạo, quản lý nhưng không có biện pháp ngăn chặn kịp thời, gây hậu quả nghiêm trọng.

- Đã được tổ chức đảng cấp trên chấn chỉnh, nhắc nhở, yêu cầu khắc phục , rút kinh nghiệm nhưng vẫn để vi phạm tiếp diễn.

Việc kỷ luật cách chức một, một số hoặc tất cả các chức vụ trong Đảng thì căn cứ vào tính chất, mức độ, hậu quả của vi phạm để xem xét, quyết định.

Ngoài ra, Ủy ban kiểm tra Trung ương cũng hướng dẫn việc áp dụng các hình thức kỷ luật đối với một số vi phạm; trong đó có vi phạm về chính sách dân số.

 

Hiện nay, theo Nghị quyết 21-NQ/TW năm 2017 Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII về công tác dân số trong tình hình mới có nêu quan điểm: Đề cao tính tiên phong, gương mẫu của mỗi cán bộ, đảng viên trong việc thực hiện chủ trương, chính sách về công tác dân số, nhất là sinh đủ hai con, chú trọng nuôi dạy con tốt, gia đình hạnh phúc, tạo sức lan tỏa sâu rộng trong toàn xã hội.

Việc đảng viên sinh con thứ 3, 4, 5 (không thuộc trường hợp không bị xử lý kỷ luật quy định tại Điều 2 Quy định 05-QĐi/TW năm 2018) vẫn có thể xem là vi phạm chính sách dân số và bị kỷ luật theo Quy định 69.

Cụ thể, trường hợp gây hậu quả ít nghiêm trọng thì kỷ luật bằng hình thức khiển trách; đã bị kỷ luật khiển trách mà tái phạm hoặc vi phạm lần đầu gây hậu quả nghiêm trọng thì kỷ luật bằng hình thức cảnh cáo hoặc cách chức (nếu có chức vụ); trường hợp gây hậu quả rất nghiêm trọng thì kỷ luật bằng hình thức khai trừ.

Khi đó, theo hướng dẫn mới nhất của Ủy ban kiểm tra Trung ương, trường hợp vi phạm do nếu thực hiện các biện pháp kế hoạch hóa gia đình sẽ gây ảnh hưởng đến sức khỏe thai sản (có xác nhận của bệnh viện cấp huyện và tương đương trở lên) thì được xem xét giảm nhẹ mức kỷ luật.

Vi phạm do cố ý hoặc cưỡng ép không thực hiện kế hoạch hóa gia đình thì xem xét tăng nặng mức kỷ luật.

9 trường hợp đảng viên sinh con thứ 3, 4, 5 không bị kỷ luật

Theo Điều 2 Quy định 05-QĐi/TW năm 2018 của Ban Chấp hành Trung ương quy định việc kết nạp người vi phạm chính sách dân số và kế hoạch hoá gia đình vào Đảng, có chín trường hợp không bị xử lý kỷ luật đảng viên sinh con thứ 3, 4, 5.

- Cặp vợ chồng sinh con thứ ba, nếu cả hai hoặc một trong hai người thuộc dân tộc có số dân dưới 10.000 người hoặc thuộc dân tộc có nguy cơ suy giảm số dân (tỉ lệ sinh nhỏ hơn hoặc bằng tỉ lệ chết) theo công bố chính thức của Bộ KH&ĐT.

- Cặp vợ chồng sinh lần thứ nhất mà sinh ba con trở lên.

- Cặp vợ chồng đã có một con đẻ, sinh lần thứ hai mà sinh hai con trở lên.

- Cặp vợ chồng sinh lần thứ ba trở lên, nếu tại thời điểm sinh chỉ có một con đẻ còn sống, kể cả con đẻ đã cho làm con nuôi.

- Cặp vợ chồng sinh con lần thứ ba, nếu đã có hai con đẻ nhưng một hoặc cả hai con bị dị tật hoặc mắc bệnh hiểm nghèo không mang tính di truyền, đã được Hội đồng giám định y khoa cấp tỉnh hoặc cấp Trung ương xác nhận.

- Cặp vợ chồng đã có con riêng (con đẻ), quy định này không áp dụng cho trường hợp hai người đã từng có hai con chung trở lên và các con hiện đang còn sống.

+ Sinh một con hoặc hai con, nếu một trong hai người đã có con riêng (con đẻ).

+ Sinh một hoặc hai con trở lên trong cùng một lần sinh, nếu cả hai người đã có con riêng (con đẻ).

- Sinh con thứ ba do mang thai ngoài ý muốn, nếu thực hiện các biện pháp kế hoạch hóa gia đình gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khoẻ người mẹ (có xác nhận của bệnh viện cấp huyện và tương đương trở lên).

- Phụ nữ chưa kết hôn sinh ba con trở lên trong cùng một lần sinh.

- Sinh con thứ ba trở lên trước ngày 19-1-1989 (ngày có hiệu lực thi hành Quyết định 162-HĐBT, ngày 18/10/1988 của Hội đồng Bộ trưởng về một số chính sách dân số và kế hoạch hoá gia đình).