Tại buổi lễ, Thủ tướng Phạm Minh Chính đánh giá cao những nỗ lực của chủ đầu tư, tư vấn, các nhà thầu đã triển khai dự án cống Cái Lớn - Cái Bé giai đoạn 1 hoàn thành sớm.
Thủ tướng chỉ đạo: "Dự án phải được triển khai có hiệu quả, có quy trình vận hành hợp lý, tiếp tục nghiên cứu đề xuất các giải pháp phi công trình và công trình để sử dụng hết công năng".
Đối với những hộ dân bị ảnh hưởng trong quá trình triển khai dự án, Thủ tướng yêu cầu các đơn vị có liên quan phải phát triển các ngành nghề, chăm lo nâng cao thu nhập sao cho tăng thêm.
Tại lễ khánh thành, Bộ trưởng Bộ NN-PTNT Lê Minh Hoan nhấn mạnh, công trình cống Cái Lớn - Cái Bé đạt được nhiều mục đích, ý nghĩa rất quan trọng. Góp phần thay đổi trong tư duy và nhận thức đối với công tác thủy lợi khu vực ven biển ĐBSCL, chuyển từ tư duy “ngăn mặn” sang “kiểm soát nguồn nước”. Từ dự án này cho thấy, Việt Nam có thể hoàn toàn xây dựng, quản lý các công trình thủy lợi lớn, kỹ thuật phức tạp.
Trong thời gian tới, Bộ trưởng lưu ý, đơn vị vận hành bảo đảm an toàn, hiệu quả cao nhất của dự án bởi vùng hưởng lợi, tác động rất lớn với diện tích 384.120ha. Đặc biệt, từ 2-3 năm tới, phải cân chỉnh, hoàn thiện quy trình vận hành hệ thống cống.
Đồng thời, nghiên cứu, xử lý dần các vấn đề tác động (đã được tính toán, lường trước) như nước dâng gây ngập phía hạ lưu cống hoặc mâu thuẫn trong nhu cầu sử dụng nước của từng khu vực.
Cống Cái Bé rộng 85m, gồm hai khoang đã vận hành thử nghiệm hồi tháng 2.2021. Công trình đã điều tiết hạn mặn, kiểm soát trên 20.000ha đất nông nghiệp, giúp Kiên Giang tiết kiệm được chi phí đắp hơn 130 đập tạm.
Cống Cái Lớn rộng 455m, gồm 11 cửa van (cao 6-9m, rộng 40m). Trong đó, 8 cửa van 203 tấn, hai cửa van 188 tấn, một cửa van 155 tấn. Cửa van thép cuối cùng nặng 203 tấn tại khoang số 5, nằm giữa sông Cái Lớn.
Công trình thủy lợi Cái Lớn và Cái Bé khởi công tháng 11.2019, tại huyện Châu Thành và An Biên. Theo thiết kế, cống Cái Lớn có âu thuyền rộng 15m; cống Cái Bé âu thuyền rộng 15m. Cửa van, âu thuyền bằng thép, vận hành bằng xi lanh thủy lực. Trên cống có cầu, đê nối hai cống với quốc lộ 61 dài hơn 5,7km, mặt đê 9m, phần xe chạy 7m.
Toàn dự án khi hoàn thành kiểm soát, điều tiết nguồn nước (mặn, lợ, ngọt) cho 384.000ha đất tự nhiên ở Kiên Giang, Hậu Giang, Cà Mau và Bạc Liêu. Công trình góp phần phòng chống thiên tai, cháy rừng, tăng khả năng thoát lũ, tiêu úng, cải tạo đất phèn; kết hợp phát triển giao thông bộ.
Kết hợp tuyến đê biển Tây tạo thành cụm công trình chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu, nước biển dâng, phòng, chống thiên tai, giảm ngập úng khi mặt đất hạ thấp (do lún sụt đất); giảm thiệt hại do thiên tai (hạn, mặn) vào mùa khô cho các mô hình sản xuất trong vùng.
Góp phần cấp nước ngọt trong mùa mưa cho vùng sản xuất mặn, ngọt huyện An Minh, An Biên với những năm mưa ít; và tiêu thoát cho vùng hưởng lợi của dự án trong điều kiện biến đổi khí hậu, nước biển dâng.
Chủ đầu tư dự án là Ban Quản lý Đầu tư và XDTL10, tổng vốn đầu tư hơn 3.300 tỉ đồng. Ngoài ra, UBND huyện Châu Thành và An Biên tỉnh Kiên Giang làm Chủ đầu tư Hợp phần đền bù giải phóng mặt bằng; Sở NN-PTNT Kiên Giang làm Chủ đầu tư Hợp phần mô hình sinh kế, các hoạt động phi công trình và 8 cống dọc tuyến An Minh - An Biên. Sở NN-PTNT Hậu Giang làm chủ đầu tư Hợp phần mô hình sinh kế, các hoạt động phi công trình trên địa bàn tỉnh Hậu Giang.